Giới thiệu về tầu sân bay
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Giới thiệu về tầu sân bay
Về cơ bản, một tầu sân bay có chức năng chính là làm nơi đậu các máy bay và có một hệ thống đường băng cho phép máy bay hạ cánh và cất cánh thuận lợi. Trong cuộc chiến 10 năm diễn ra từ năm 1903, Mỹ cùng với Anh và Đức đã thử nghiệm các tầu chiến hiện đại nhất của mình lúc bấy giờ và hiểu ra rằng cần phải phát triển một dạng tầu cỡ lớn có khả năng hoạt động rộng và chuyên trở được máy bay chiến đấu đến bất cứ nơi nào trên thế giới.
Với hàng tỉ bộ phận, siêu tầu sân bay lớp Nimizt là một trong những cỗ máy phức tạp nhất trên thế giới. Nhưng nếu xét ở mức độ khái niệm nó lại hết sức đơn giản. Nó được thiết kế để thực hiện bốn công việc cơ bản sau:
* Vận chuyển các loại máy bay trên biển.
* Cho phép máy bay cất cánh và hạ cánh.
* Hoạt động như một trung tâm chỉ huy từ xa cho các hoạt động quân sự.
* Là nơi ở và sinh hoạt cho thuỷ thủ đoàn.
Để hoàn thành những nhiệm vụ này, tầu sân bay cần phải kết hợp nhiều yếu tố của một tầu thuỷ, một căn cứ quân sự, một thành phố thu nhỏ. Trong đó nó cần phải có:
* Flight-deck (đường băng): bề mặt phẳng và rộng phía trên cùng của tầu làm nơi máy bay cất cánh và hạ cánh.
* Hangar-deck (khoang chứa máy bay): boong phía dưới Flight-deck để xếp và chứa các máy bay khi chưa sử dụng.
* Island (tháp chỉ huy điều hành): tháp được xây dựng phía trên cùng của Flight-deck để chỉ huy việc hoạt động của tầu và máy bay lúc cất hạ cánh.
* Phòng làm việc và sinh hoạt của thuỷ thủ đoàn.
* Nhà máy điện và hệ thống đẩy để tầu di chuyển và cung cấp điện cho toàn bộ tầu.
* Các hệ thống khác để cung cấp thức ăn, nước và giải quyết mọi thứ hệt như một thành phố thực thụ như: nước thải, rác, thư từ, radio, TV, báo chí...
* Thân tầu, phần chính của tầu nổi trên mặt nước.
Thân tầu được làm bằng những lá thép siêu cứng có độ dày tới vài inch. Vỏ tầu có khả năng bảo vệ hiệu quả trước các cuộc tấn công và phá hoại. Cấu trúc của tầu chia làm ba tầng rõ rệt theo chiều ngang bên trong vỏ tầu là: sống tầu (trục kim loại ở đáy tầu), Flight-deck và Hangar.
Phần vỏ tầu nằm dưới mặt nước thu nhỏ hơn so với phần nổi trên mặt nước. Phần thấp hơn này lại chia thành hai phần với hai lớp lá thép phân cánh nhau bởi một khoảng trống. Cấu trúc này giúp tăng khả năng bảo vệ trước các tấn công bằng ngư lôi hay tai nạn trên biển. Nếu bị tấn công vào phần đáy tầu, lớp bên ngoài bị thủng nhưng lớp thứ hai sẽ bảo vệ không cho nước chảy vào trong.
Cấu tạo tàu sân bay
Trong thế chiến thứ nhất, tàu sân bay không có vai trò quan trọng lắm nhưng trong thế chiến thứ hai nó trở thành trung tâm chỉ huy về không quân. Trong trận Trân Châu cảng năm 1941, Nhật bản đã sử dụng các máy bay tấn công từ các tàu sân bay. Ngày nay các siêu tàu sân bay là thành phần chủ yếu trong các chiến dịch quân sự do quân đội Mỹ thực hiện. Mặc dù không được trang bị các loại vũ khí đặc biệt nhưng sức mạnh của tàu sân bay với ưu thế về không lực có thể tạo ra sự khác biệt giữa chiến thắng và thất bại.
Một trong số những trở ngại chính của việc sử dụng không lực trong chiến tranh là tạo được các điểm đỗ cho máy bay. Để xây dựng và duy trì một căn cứ không quân ở nước ngoài, nước Mỹ hay bất cứ quốc gia nào phải đạt được những thoả thuận với quốc gia đó. Điều này thường cực kỳ khó khăn do nhiều điều kiện, đặc biệt ở một số khu vực trên thế giới.
Theo luật lãnh hải của Liên hiệp quốc, tầu sân bay và các tầu chiến được thừa nhận như những sức mạnh tối thượng trên vùng biển có quyền tới mọi vùng lãnh hải quốc tế. Chúng không được tới quá gần các vùng lãnh hải của bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên khi quân đội Mỹ có những thoả thuận đặc biệt về việc xây dựng căn cứ quân sự trên bộ với quốc gia nào đó, tầu sân bay cùng với các tầu chiến khác trong hạm đội làm nhiệm vụ bảo vệ (thường có từ 6 đến 8 chiếc) có thể đến lãnh hải nước đó. Các máy bay ném bom, máy bay chiến đấu và máy bay khác sau khi thực hiện nhiệm vụ sẽ quay trở về tầu sân bay. Trong mọi trường hợp, hải quân đều có khả năng cung cấp nhiên liệu, đạn dược, bảo dưỡng sửa chữa các hỏng hóc cho các loại máy bay.
Tầu sân bay có thể di chuyển với tốc độ tối đa 35 knot (40 dặm/h, 64 km/h) và có khả năng đi tới bất cứ đâu trên biển trong vài tuần. Hiện tại hải quân mỹ có sáu hạm đội thường trực sẫn sàng di chuyển mọi lúc mọi nơi cần thiết.
Các từ sử dụng trên tầu sân bay• Stern - phần đuôi tầu
• Bow - phần mũi tầu
• Starboard - phần bên phải tầu (nếu đứng đối diện với tầu)
• Port - phần bên trái tầu
• Forward - di chuyển về phía mũi tầu
• Aft - di chuyển về phía đuôi tầu
• Inboard - di chuyển từ bên cạnh tầu vào giữa tầu
• Outboard - di chuyển từ giữa tầu ra phía cạnh tầu
• Below - boong dưới
• Fantail - khu vực đuôi của từng boong
Các tầu sân bay được thiết kế có thể mang tới 70-80 máy bay các loại. Có thể kể ra một số loại máy bay quân sự thường có trên các tầu sân bay như: F/A-18 Hornet, F-14 Tomcat, E-2C Hawkeye, S-3B Viking, EA-6B Prowler, SH-60 Seahawk. Khả năng tác chiến hạm đội với tầu sân bay là trung tâm chỉ huy được đánh giá rất cao với sức mạnh trên không và trên biển.
Hạ cánh xuống tầu sân bay là một trong những việc khó nhất mà các phi công phải thực hiện với đường băng trên tàu sân bay chỉ dài khoảng 150m, quá ngắn cho việc hạ cánh thông thường. Để hạ cánh trên Flight-deck, mỗi máy bay cần có một chiếc móc (Tailhook) ở phía đuôi máy bay. Phi công phải làm sao cho móc này vướng vào một trong bốn đoạn cáp hãm (Arresting Wire) cực chắc chế tạo từ loại dây thép siêu bền.
Các Arresting Wire được căng ngang Flight-deck và được gắn vào hai đầu của một xi-lanh sử dụng áp lực nước nằm phía dưới Flight-deck. Nếu Taihook ở phía đuôi máy bay vướng vào một trong số các Arresting Wire, nó sẽ làm căng sợi cáp ra và hệ thống xi-lanh sẽ sinh ra năng lượng để làm máy bay dừng lại. Hệ thống Arresting Wire có khả năng hãm một máy bay nặng 54.000 pound (24,5 tấn) có tốc độ 150 dặm một giờ (241 km/h) chỉ trong hai giây với đoạn đường băng 96m.
Có tất cả bốn Arresting Wire được thiết kế song song với nhau cách nhau khoảng 15m để mở rộng khu vực hạ cánh cho phi công. Phi công thường nhắm vào Arresting Wire thứ ba để hạ cánh bởi nó an toàn về hiệu quả nhất. Phi công không bao giờ nhắm vào Arresting Wire đầu tiên vì rất nguy hiểm do nó sát với mạn boong tầu và rất dễ bị đâm vào phía đuôi tầu. Phi công có thể nhắm tới Arresting Wire thứ hai và thứ tư nhưng hạ cánh với Arresting Wire thứ ba là phù hợp nhất.
Khi chuẩn bị hạ cánh, phi công cần tiếp cận mặt boong chính xác từ góc phải. Các thao tác hạ cánh bắt đầu khi máy bay lượn theo hình ô van quanh tầu. Trung tâm điều khiển (Air Traffic Control Center) nằm phía dưới boong quyết định cho phép hạ cánh ưu tiên ngay hay không dựa vào chỉ số về mức nhiên liệu của máy bay. Khi hạ cánh, phi công bật hệ thống phanh và hướng mũi máy bay về phía đuôi tầu. Người hướng dẫn hạ cánh (Landing Signal Officer - LSO) sẽ hướng dẫn máy bay qua radio và các đèn báo trên boong. Nếu máy bay hạ cánh thành công, LSO sẽ chiếu đèn xanh để thông báo cho phi công biết mọi thứ đều ổn.
Phi công phải nhìn vào hệ thống quang học trợ giúp hạ cánh (Fresnel Lens Optical Landing System) để có được các hướng dẫn, trợ giúp lúc hạ cánh từ LSO. Phi công sẽ nhìn thấy ánh sáng khác nhau từ hệ thống này tuỳ thuộc vào góc độ của máy bay khi tiếp cận với tầu. Nếu máy bay ở phía bên phải, phi công sẽ nhìn thấy ánh sáng mầu hổ phách với một hàng đèn xanh. Nếu ánh sáng hổ phách xuất hiện phía trên dãy đèn xanh tức là máy bay đang bay quá cao. Nếu ánh sáng hổ phách ở phía dưới tức là máy bay đang bay quá thấp, lúc này phi công sẽ thấy đèn đỏ báo.
Ngay khi máy bay tiếp cận mặt boong, phi công sẽ đẩy động cơ tới mức tối đa, thay vì đưa về mức thấp để hãm máy bay lại. Điều này có vẻ vô lý, nhưng nếu Tailhook ở phía đuôi máy bay không vướng vào bất cứ Arresting Wire nào thì máy bay vẫn đủ tốc độ để cất cánh lại, tiếp tục bay và tìm cách hạ cánh sau. Sau khi hạ cánh, máy bay được tháo khỏi Arresting Wire và được xích vào phía rìa của đường băng. Các máy bay khi đỗ trên Flight-deck đều được cố định chặt để bảo vệ khỏi các xô lệch khi tầu gặp sóng lớn.
Những người phục vụ trên đường băng phải chuẩn bị đối phó với mọi tình huống, đặc biệt khi máy bay bị cháy. Họ được trang bị rất nhiều thiết bị như xe cứu hoả, vòi cứu hoả, bọt cứu hoả. Họ cũng thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ từ phản lực động cơ máy bay. Hệ thống lưới bao xung quanh Flight-deck giúp giảm bớt nguy cơ này. Tuy nhiên họ cũng được trang bị áo phao tự bơm với đèn cứu hộ được kích hoạt ngay khi tiếp xúc với nước. Ngoài ra những người phục vụ trên Flight-deck còn được trang bị mũ bảo hộ có tính năng giảm tối đa tác động của âm thanh.
Với hàng tỉ bộ phận, siêu tầu sân bay lớp Nimizt là một trong những cỗ máy phức tạp nhất trên thế giới. Nhưng nếu xét ở mức độ khái niệm nó lại hết sức đơn giản. Nó được thiết kế để thực hiện bốn công việc cơ bản sau:
* Vận chuyển các loại máy bay trên biển.
* Cho phép máy bay cất cánh và hạ cánh.
* Hoạt động như một trung tâm chỉ huy từ xa cho các hoạt động quân sự.
* Là nơi ở và sinh hoạt cho thuỷ thủ đoàn.
Để hoàn thành những nhiệm vụ này, tầu sân bay cần phải kết hợp nhiều yếu tố của một tầu thuỷ, một căn cứ quân sự, một thành phố thu nhỏ. Trong đó nó cần phải có:
* Flight-deck (đường băng): bề mặt phẳng và rộng phía trên cùng của tầu làm nơi máy bay cất cánh và hạ cánh.
* Hangar-deck (khoang chứa máy bay): boong phía dưới Flight-deck để xếp và chứa các máy bay khi chưa sử dụng.
* Island (tháp chỉ huy điều hành): tháp được xây dựng phía trên cùng của Flight-deck để chỉ huy việc hoạt động của tầu và máy bay lúc cất hạ cánh.
* Phòng làm việc và sinh hoạt của thuỷ thủ đoàn.
* Nhà máy điện và hệ thống đẩy để tầu di chuyển và cung cấp điện cho toàn bộ tầu.
* Các hệ thống khác để cung cấp thức ăn, nước và giải quyết mọi thứ hệt như một thành phố thực thụ như: nước thải, rác, thư từ, radio, TV, báo chí...
* Thân tầu, phần chính của tầu nổi trên mặt nước.
Thân tầu được làm bằng những lá thép siêu cứng có độ dày tới vài inch. Vỏ tầu có khả năng bảo vệ hiệu quả trước các cuộc tấn công và phá hoại. Cấu trúc của tầu chia làm ba tầng rõ rệt theo chiều ngang bên trong vỏ tầu là: sống tầu (trục kim loại ở đáy tầu), Flight-deck và Hangar.
Phần vỏ tầu nằm dưới mặt nước thu nhỏ hơn so với phần nổi trên mặt nước. Phần thấp hơn này lại chia thành hai phần với hai lớp lá thép phân cánh nhau bởi một khoảng trống. Cấu trúc này giúp tăng khả năng bảo vệ trước các tấn công bằng ngư lôi hay tai nạn trên biển. Nếu bị tấn công vào phần đáy tầu, lớp bên ngoài bị thủng nhưng lớp thứ hai sẽ bảo vệ không cho nước chảy vào trong.
Cấu tạo tàu sân bay
Trong thế chiến thứ nhất, tàu sân bay không có vai trò quan trọng lắm nhưng trong thế chiến thứ hai nó trở thành trung tâm chỉ huy về không quân. Trong trận Trân Châu cảng năm 1941, Nhật bản đã sử dụng các máy bay tấn công từ các tàu sân bay. Ngày nay các siêu tàu sân bay là thành phần chủ yếu trong các chiến dịch quân sự do quân đội Mỹ thực hiện. Mặc dù không được trang bị các loại vũ khí đặc biệt nhưng sức mạnh của tàu sân bay với ưu thế về không lực có thể tạo ra sự khác biệt giữa chiến thắng và thất bại.
Một trong số những trở ngại chính của việc sử dụng không lực trong chiến tranh là tạo được các điểm đỗ cho máy bay. Để xây dựng và duy trì một căn cứ không quân ở nước ngoài, nước Mỹ hay bất cứ quốc gia nào phải đạt được những thoả thuận với quốc gia đó. Điều này thường cực kỳ khó khăn do nhiều điều kiện, đặc biệt ở một số khu vực trên thế giới.
Theo luật lãnh hải của Liên hiệp quốc, tầu sân bay và các tầu chiến được thừa nhận như những sức mạnh tối thượng trên vùng biển có quyền tới mọi vùng lãnh hải quốc tế. Chúng không được tới quá gần các vùng lãnh hải của bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên khi quân đội Mỹ có những thoả thuận đặc biệt về việc xây dựng căn cứ quân sự trên bộ với quốc gia nào đó, tầu sân bay cùng với các tầu chiến khác trong hạm đội làm nhiệm vụ bảo vệ (thường có từ 6 đến 8 chiếc) có thể đến lãnh hải nước đó. Các máy bay ném bom, máy bay chiến đấu và máy bay khác sau khi thực hiện nhiệm vụ sẽ quay trở về tầu sân bay. Trong mọi trường hợp, hải quân đều có khả năng cung cấp nhiên liệu, đạn dược, bảo dưỡng sửa chữa các hỏng hóc cho các loại máy bay.
Tầu sân bay có thể di chuyển với tốc độ tối đa 35 knot (40 dặm/h, 64 km/h) và có khả năng đi tới bất cứ đâu trên biển trong vài tuần. Hiện tại hải quân mỹ có sáu hạm đội thường trực sẫn sàng di chuyển mọi lúc mọi nơi cần thiết.
Các từ sử dụng trên tầu sân bay• Stern - phần đuôi tầu
• Bow - phần mũi tầu
• Starboard - phần bên phải tầu (nếu đứng đối diện với tầu)
• Port - phần bên trái tầu
• Forward - di chuyển về phía mũi tầu
• Aft - di chuyển về phía đuôi tầu
• Inboard - di chuyển từ bên cạnh tầu vào giữa tầu
• Outboard - di chuyển từ giữa tầu ra phía cạnh tầu
• Below - boong dưới
• Fantail - khu vực đuôi của từng boong
Các tầu sân bay được thiết kế có thể mang tới 70-80 máy bay các loại. Có thể kể ra một số loại máy bay quân sự thường có trên các tầu sân bay như: F/A-18 Hornet, F-14 Tomcat, E-2C Hawkeye, S-3B Viking, EA-6B Prowler, SH-60 Seahawk. Khả năng tác chiến hạm đội với tầu sân bay là trung tâm chỉ huy được đánh giá rất cao với sức mạnh trên không và trên biển.
Hạ cánh xuống tầu sân bay là một trong những việc khó nhất mà các phi công phải thực hiện với đường băng trên tàu sân bay chỉ dài khoảng 150m, quá ngắn cho việc hạ cánh thông thường. Để hạ cánh trên Flight-deck, mỗi máy bay cần có một chiếc móc (Tailhook) ở phía đuôi máy bay. Phi công phải làm sao cho móc này vướng vào một trong bốn đoạn cáp hãm (Arresting Wire) cực chắc chế tạo từ loại dây thép siêu bền.
Các Arresting Wire được căng ngang Flight-deck và được gắn vào hai đầu của một xi-lanh sử dụng áp lực nước nằm phía dưới Flight-deck. Nếu Taihook ở phía đuôi máy bay vướng vào một trong số các Arresting Wire, nó sẽ làm căng sợi cáp ra và hệ thống xi-lanh sẽ sinh ra năng lượng để làm máy bay dừng lại. Hệ thống Arresting Wire có khả năng hãm một máy bay nặng 54.000 pound (24,5 tấn) có tốc độ 150 dặm một giờ (241 km/h) chỉ trong hai giây với đoạn đường băng 96m.
Có tất cả bốn Arresting Wire được thiết kế song song với nhau cách nhau khoảng 15m để mở rộng khu vực hạ cánh cho phi công. Phi công thường nhắm vào Arresting Wire thứ ba để hạ cánh bởi nó an toàn về hiệu quả nhất. Phi công không bao giờ nhắm vào Arresting Wire đầu tiên vì rất nguy hiểm do nó sát với mạn boong tầu và rất dễ bị đâm vào phía đuôi tầu. Phi công có thể nhắm tới Arresting Wire thứ hai và thứ tư nhưng hạ cánh với Arresting Wire thứ ba là phù hợp nhất.
Khi chuẩn bị hạ cánh, phi công cần tiếp cận mặt boong chính xác từ góc phải. Các thao tác hạ cánh bắt đầu khi máy bay lượn theo hình ô van quanh tầu. Trung tâm điều khiển (Air Traffic Control Center) nằm phía dưới boong quyết định cho phép hạ cánh ưu tiên ngay hay không dựa vào chỉ số về mức nhiên liệu của máy bay. Khi hạ cánh, phi công bật hệ thống phanh và hướng mũi máy bay về phía đuôi tầu. Người hướng dẫn hạ cánh (Landing Signal Officer - LSO) sẽ hướng dẫn máy bay qua radio và các đèn báo trên boong. Nếu máy bay hạ cánh thành công, LSO sẽ chiếu đèn xanh để thông báo cho phi công biết mọi thứ đều ổn.
Phi công phải nhìn vào hệ thống quang học trợ giúp hạ cánh (Fresnel Lens Optical Landing System) để có được các hướng dẫn, trợ giúp lúc hạ cánh từ LSO. Phi công sẽ nhìn thấy ánh sáng khác nhau từ hệ thống này tuỳ thuộc vào góc độ của máy bay khi tiếp cận với tầu. Nếu máy bay ở phía bên phải, phi công sẽ nhìn thấy ánh sáng mầu hổ phách với một hàng đèn xanh. Nếu ánh sáng hổ phách xuất hiện phía trên dãy đèn xanh tức là máy bay đang bay quá cao. Nếu ánh sáng hổ phách ở phía dưới tức là máy bay đang bay quá thấp, lúc này phi công sẽ thấy đèn đỏ báo.
Ngay khi máy bay tiếp cận mặt boong, phi công sẽ đẩy động cơ tới mức tối đa, thay vì đưa về mức thấp để hãm máy bay lại. Điều này có vẻ vô lý, nhưng nếu Tailhook ở phía đuôi máy bay không vướng vào bất cứ Arresting Wire nào thì máy bay vẫn đủ tốc độ để cất cánh lại, tiếp tục bay và tìm cách hạ cánh sau. Sau khi hạ cánh, máy bay được tháo khỏi Arresting Wire và được xích vào phía rìa của đường băng. Các máy bay khi đỗ trên Flight-deck đều được cố định chặt để bảo vệ khỏi các xô lệch khi tầu gặp sóng lớn.
Những người phục vụ trên đường băng phải chuẩn bị đối phó với mọi tình huống, đặc biệt khi máy bay bị cháy. Họ được trang bị rất nhiều thiết bị như xe cứu hoả, vòi cứu hoả, bọt cứu hoả. Họ cũng thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ từ phản lực động cơ máy bay. Hệ thống lưới bao xung quanh Flight-deck giúp giảm bớt nguy cơ này. Tuy nhiên họ cũng được trang bị áo phao tự bơm với đèn cứu hộ được kích hoạt ngay khi tiếp xúc với nước. Ngoài ra những người phục vụ trên Flight-deck còn được trang bị mũ bảo hộ có tính năng giảm tối đa tác động của âm thanh.
highflyer- Sinh viên năm 3
- Tổng số bài gửi : 178
Registration date : 28/10/2007
Similar topics
» Giới thiệu về tổ bay
» Thiếu trầm trọng nhân lực hàng không
» IFR - Quy tắc bay bằng thiết bị
» Điều kiện khí tượng bay bằng thiết bị
» Hàng không thế giới thiếu nhân lực
» Thiếu trầm trọng nhân lực hàng không
» IFR - Quy tắc bay bằng thiết bị
» Điều kiện khí tượng bay bằng thiết bị
» Hàng không thế giới thiếu nhân lực
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết